Chu kỳ kinh tế là yếu tố vô cùng ảnh hưởng mọi người trên thế giới. Hãy tưởng tượng một trường hợp mà bạn đang tìm kiếm một công việc. Nhưng không thể tìm thấy bất kỳ công việc nào. Bạn bè của mình cũng đang gặp phải vấn đề tương tự. Bạn phát hiện trên tin tức rằng nền kinh tế đang suy thoái. Trong đó cũng là một lý do tại sao mọi người khó tìm được việc làm. Tuy nhiên, một vài năm sau, có rất nhiều việc làm mở ra. Tất cả mọi người đều đi làm, và kinh tế ngày càng phát triển.
Đây chính là những gì chu kỳ kinh tế là tất cả về. Nó đề cập đến các giai đoạn trong nền kinh tế có tăng trưởng và giai đoạn suy thoái. Bài viết này sẽ giúp bạn hiểu mọi thứ bạn cần biết về các chu kỳ này.
Mục lục
Chu kỳ kinh tế là gì?

Chu kỳ kinh tế hay chu kỳ kinh doanh (tiếng anh: Business Cycle) là sự biến động của GDP thực tế tạo nên sự luân phiên của nền kinh tế.
Thể hiện ở các chuỗi sự kiện được lặp lại theo thời gian. Mỗi chuỗi sự kiện sẽ có những điểm đặc trưng riêng.
Như các bạn đã biết, nền kinh tế thị trường không thể mãi tăng trưởng hoặc mãi suy thoái mà nó biến động liên tục, tăng đến một mức độ nào đó sẽ phải giảm, đi xuống đến một chừng mực thì sẽ bắt đầu tăng lên. Và sự lặp đi lặp lại này gọi là chu kỳ kinh tế.
GDP (Gross Domestic Product): Là tổng giá trị bằng tiền của tất cả sản phẩm, dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong nước, trong một thời gian nhất định.
Nguyên nhân của chu kỳ kinh tế
Theo Sismondi, các chu kỳ kinh tế ngắn hạn là kết quả tự nhiên của các yếu tố thị trường. Do sản xuất dư thừa, tiêu dùng thấp. Quan điểm này đối lập với những quan điểm trước đó cho rằng nguyên nhân của chu kỳ kinh tế ngắn hạn là do các điều kiện bên ngoài như chiến tranh, bệnh dịch,…
Khi nền kinh tế tăng trưởng, doanh nghiệp phát triển -> mức lương người lao động tăng, họ có nhiều tiền hơn để chi tiêu -> sản lượng hàng hóa tăng lên -> doanh nghiệp lại phát triển và mở rộng quy mô.
Khi đó, các doanh nghiệp gia tăng cạnh tranh bằng cách sản xuất lượng lớn hàng hóa dẫn tới tình trạng dư cung. Họ buộc phải giảm giá để kích cầu -> lợi nhuận doanh nghiệp giảm -> cắt giảm người lao động -> suy thoái kinh tế.

Công thức biện pháp đối phó chu kỳ kinh tế
Trên thực tế, không có công thức tính Economic Cycle cụ thể nào. Bởi vì chu kỳ này là những biến động không mang tính quy luật. Không có 2 chu kỳ nào giống nhau hoàn toàn cả.
- Đối với chính phủ: Chính phủ tìm cách dự báo thời gian các chu kỳ thông qua những dấu hiệu để có biện pháp đối phó nhằm giảm bớt những tác động xấu đến nền kinh tế quốc gia.
- Đối với các doanh nghiệp: Cần phải hiểu rõ các dấu hiệu của chu kỳ để kế hoạch định xem nên đầu tư và chi tiêu.
Ví dụ, khi nền kinh tế rơi vào giai đoạn suy thoái, các doanh nghiệp nên xem xét có thể đầu tư vào những lĩnh vực y tế và dịch vụ tiện ích vì những ngành này cầu sẽ không suy giảm nhiều. Khi nền kinh tế tăng trưởng mạnh, các doanh nghiệp có thể ưu tiên phát triển công nghệ, tài chính và các ngành tiêu dùng.
Các giai đoạn trong chu kỳ kinh tế

Economic Cycle thường chia ra thành 4 giai đoạn như sau:
1. Giai đoạn suy thoái (Recession)
Giai đoạn này là thời điểm nền kinh tế bắt đầu có các dấu hiệu đi xuống. Như, sản lượng hàng hóa suy giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng, mức lương thấp, lãi tín dụng bị thắt chặt… Trong đó, dẫn đến GDP của nền kinh tế sụt giảm. Lạm phát ở thời kỳ này có sự giảm tốc độ nhưng có độ trễ nhất định.
2. Giai đoạn đáy chu kỳ (Trough)
Nền kinh tế đã bị suy thoái ở mức nghiêm trọng với giai đoạn này, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người dân, doanh nghiệp. Nhà nước bắt đầu có các chính sách hỗ trợ tài chính bằng cách bơm nguồn tiền vào nền kinh tế. Các hoạt động hỗ trợ như: Giảm lãi suất, chính sách trợ giá… để làm giảm đà suy thoái kinh tế chung của thị trường. Lạm phát ở giai đoạn đáy có sự tăng nhẹ.
3. Giai đoạn phục hồi (Recovery)
Giai đoạn này nền kinh tế bắt đầu có các dấu hiệu phục hồi. Như, sản xuất tăng trưởng trở lại, lợi nhuận và doanh thu của các công ty ghi nhận cao trở lại… Mức GDP liên tục ghi nhận ở mức dương và tăng trưởng vượt bậc so với giai đoạn trước đó. Thời điểm này, lạm phát ở mức vừa phải và có xu hướng giảm.
4. Giai đoạn đỉnh chu kỳ (Peak)
Giá trị GDP của giai đoạn này ở mức cao nhưng tăng trưởng chậm hơn giai đoạn phục hồi. GDP tăng trưởng chậm hơn do nền kinh tế đã đạt đỉnh. Đây cũng là thời điểm lạm phát bắt đầu tăng nhanh, đồng tiền mất giá. Nền kinh tế lúc này có các dấu hiệu đạt đỉnh và bắt đầu giai đoạn suy thoái, bước sang chu kỳ mới.
Chu kỳ kinh tế là một hiện tượng không thể thiếu trong bất kỳ nền kinh tế nào. Các chu kỳ này có thể dự đoán và diễn ra đều đặn. Tuy nhiên, khoảng thời gian mỗi giai đoạn kéo dài thường không giống nhau. Tuy vậy, mỗi một chu kỳ kinh tế đều bao gồm giai đoạn suy thoái, giai đoạn đáy chu kỳ, giai đoạn phục hồi và giai đoạn đỉnh chu kỳ. Dựa vào nội dụng trên mong rằng bạn có thể có hiểu được về Economic Cycle.
Câu hỏi thường gặp
Chu kỳ kinh tế hay chu kỳ kinh doanh (tiếng anh: Business Cycle) là sự biến động của GDP thực tế tạo nên sự luân phiên của nền kinh tế.
Theo Sismondi, các chu kỳ kinh tế ngắn hạn là kết quả tự nhiên của các yếu tố thị trường. Do sản xuất dư thừa, tiêu dùng thấp. Quan điểm này đối lập với những quan điểm trước đó cho rằng nguyên nhân của chu kỳ kinh tế ngắn hạn là do các điều kiện bên ngoài như chiến tranh, bệnh dịch,…
Giai đoạn này là thời điểm nền kinh tế bắt đầu có các dấu hiệu đi xuống. Như, sản lượng hàng hóa suy giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng, mức lương thấp, lãi tín dụng bị thắt chặt…
Nền kinh tế đã bị suy thoái ở mức nghiêm trọng với giai đoạn này, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người dân, doanh nghiệp. Nhà nước bắt đầu có các chính sách hỗ trợ tài chính bằng cách bơm nguồn tiền vào nền kinh tế.
Giai đoạn này nền kinh tế bắt đầu có các dấu hiệu phục hồi. Như, sản xuất tăng trưởng trở lại, lợi nhuận và doanh thu của các công ty ghi nhận cao trở lại…
Giá trị GDP của giai đoạn này ở mức cao nhưng tăng trưởng chậm hơn giai đoạn phục hồi. GDP tăng trưởng chậm hơn do nền kinh tế đã đạt đỉnh.
Đọc thêm: Giáo dục